CHỊ LỚN ĐẦU SƯ SANG HƯƠNG: NỮ ĐẦU SƯ TRỌN ĐỜI HY SINH PHỤC VỤ ĐẠO VÀ ĐÁT NƯỚC

Gửi ngày 22/09/2014
CHỊ LỚN ĐẦU SƯ SANG HƯƠNG: NỮ ĐẦU SƯ TRỌN ĐỜI HY SINH PHỤC VỤ ĐẠO VÀ ĐÁT NƯỚC
CHỊ LỚN ĐẦU SƯ SANG HƯƠNG: NỮ ĐẦU SƯ TRỌN ĐỜI HY SINH PHỤC VỤ ĐẠO VÀ ĐÁT NƯỚC

   

Chị lớn Đầu Sư tên thật: Nguyễn Thị Sang sinh ngày 07 tháng 12 năm At Tỵ (1904) ở xã Thới Bình, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Chị là người con thứ tư trong một gia đình nhà  nông, song thân của Chị là ông Nguyễn Văn Mạnh và bà Lê Thị Đẩu.

Chị lớn Đầu Sư Sang Hương từ nhỏ sống trong một gia đình lễ giáo, tánh hạnh hiền hòa, lại có lòng mến đạo, có ý chí tu hành.

Năm lên 18 tuổi, được phép của Cha Mẹ, Chị lớn quy y vào đạo Minh Sư ở chùa Linh Quang Tự xã Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Thọ giáo làm đệ tử Thái Lão Sư Trần Đạo Quang ở chùa hướng Đạo và theo chân Thái Lão Sư hai lần đi khai đạo Minh Sư ở miền Trung, lập nhiều chùa, độ nhiều người theo đạo.
Đến năm Bình Dần (1926) Đức Chí Tôn hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại miền Nam, Việt Nam. Đức Thái Lão Sư Trần Đạo Quang qui hiệp theo đạo Cao Đài, được ơn trên sắc phong Ngọc Chưởng Pháp, các môn đệ của Ngài cũng nhập môn vào đạo Cao Đài trong đó có Chị.

Trong lễ Hội Hoa Đăng tại Tòa Thánh Ngọc Minh (Giồng Bốm) Chị được Thiên phong Lễ Sanh trong đó ơn trên khuyên điểm:

Sang đường đạo cần chuyên ôn cố,
Đạo u thâm cổ dựng chỉnh kim,
Lễ Sanh con thọ mạng truyền,
Dắt dìu đồng loại Đào Nguyên Liên Đài.

Vào năm 1936 Chị đi cùng Đức Chưởng Pháp ra miền Trung truyền bá đạo Cao Đài, nhưng vì thời kỳ Pháp thuộc đô hộ, chính quyền cai trị gây khó khăn, cản trở, Chị vẫn một lòng một dạ vì Thầy, vì đạo, vì nhơn sanh lo lập công bồi đức. Ơn trên có cho Chị một bài để chứng minh lòng tâm đạo:

Sang vì đạo quên nhà quên cửa,
Thảm nổi lòng đứng giữa trần gian,
Vẹn gìn hôm sớm chẳng nan,
Ngọc càng dũa lắm, giá càng lên cao.

Năm 1940 thực dân Pháp khủng bố, đóng cửa các Tịnh Thất không cho cúng kiến mặc dù lúc bấy giờ Chị đang hành Đạo tại Trung Hưng Bữu Tòa Đà Nẳng
(Cao Đài Truyền Giáo Trung Việt ) Đức Chưởng cũng phải điều chị về Tòa Thánh Ngọc Sắc. Trong không khí bùi ngùi lưu luyến chia tay với anh chị em miền Trung. Ơn trên giáng đàn cho Chị một bài thi, để bày tỏ tình cảm sâu sắc và công lao của Chị.

Thanh Sang bồ liểu tặng ni cô,
Hoàn cảnh gian lao Hớn với Hồ;
Thạch ngọc có khi thành thép quý,
Vàng trơn đâu đặng tiếng thơm tho.
Trung Châu nhắc đến bàng hoàng dạ,
Hậu cảnh đây rồi mới khỏi lo;
Cội lý cụm lài nương bóng liểu,
Tiên sinh nho nhỏ hóa đông hồ.

Suốt 5 năm Chị sống một mình với mái chùa đóng cửa, đêm ngày chị phải vạch vách vào đốt nhang và chong đèn Thái Cực, với tài sản lớn lao tại Ngọc Sắc gồm: 1.500 giạ lúa, 18 con trâu và 2 sở đất trên 100 công. Chị sống một mực thanh liêm và khổ khó, mãi cho đến ngày 19/08/1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Đạo tái hưng, Chùa mở cửa, sau đó tại đàn cơ Ngọc Sắc Ơn trên có bài khen rằng.

Sang dấu thỏ dặm dày trọng trách,
Đáng khen con tư cách đành rành;
Dặn lòng giữ chữ băng thanh,
Non cao chí thích gởi mình tu chơn.

Cách mạng tháng 8 thành công Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, không phân biệt giáo lương, cùng nhau sát cánh chung quanh Mặt trận Việt minh, sẳn sàng bảo vệ tổ quốc, kiên quyết chống giặc ngoại xâm.

Với tư tưởng “yêu nước, vì Đạo”, được sự lãnh đạo của Hội Thánh Minh Chơn Đạo, Chị sẳn sàng tham gia mọi việc trong sự nghiệp chống thực dân Pháp. Chấp hành lệnh Hội Thánh + Anh lớn Chưởng quản Cao Triều Phát: toàn Đạo hưởng ứng công cuộc kháng chiến cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng toàn dân bảo vệ tổ quốc, Chị được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn tiếp tế cho Mặt trận Giồng Bốm năm 1946.

Tháng giêng năm 1947 Chị tham gia vào tổ chức Cao Đài cứu quốc và Hội mẹ chiến sĩ đến tháng 08 năm 1954.

Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954) Đức Chí Tôn giáng cơ tái lập Hội Thánh Minh Chơn Đạo, chọn điểm Ngọc Sắc làm Tòa Thánh. Qua chiến tranh đất nước được hòa bình: có Hội Thánh, có Tòa Thánh, toàn Đạo vô cùng phấn khởi, các cơ sở phục vụ nhơn sanh được thành lập, Chị là người đóng góp công sức lớn lao.

Ngày rằm tháng 08 năm 1955 chi khu An Phước đưa một tiểu đoàn lính đến bao vây Tòa Thánh và bắt 32 Chức sắc, Chức việc đem về chi khu An Phước giam cầm tra tấn, sát hại Giáo Hửu Trần Ngọc Kỳ. Hai ngày sau chúng đưa tàu sắt bao vây và ngang nhiên cướp đoạt tài sản của Tòa Thánh gồm: máy móc của Phước Y Viện và An thơ, bắt hiền hửu Nguyễn văn Đẩu (tức Sáu Kiên) chức việc cơ sở ấn thơ, lúc đó Chị lớn Sang Hương dẫn đầu lực lượng nữ phái trực diện đấu tranh, kết quả giải thoát được hiền hửu Nguyễn Văn Đẩu.

Qua nhiều lần trực diện đấu tranh Chị bị lộ, Hội Thánh chuyển hướng cho Chị rời Tòa Thánh đi vào vùng kháng chiến (bất hợp pháp) và sau đó Hội Thánh đề cử Chị vào Ủy Ban Mặt trận dân tộc giải phóng Khu Tây Nam Bộ, với tư cách là đại diện Nữ phái Minh Chơn Đạo Hậu Giang, với chức vụ là Ủy viên Mặt trận và được đề cử vào Ban chấp hành Hội phụ Nữ giải phóng Miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ là Ủy viên.

Chị sẳn sàng chấp nhận không nệ khó khăn gian khổ với trách nhiệm của mình Chị thường xuyên đi lại hoạt động tuyên truyền, vận động con em trong các gia đình Họ Đạo tòng quân giết giặc, chẳng quản nắng mưa, vùng xa xôi hẻo lánh hiểm trở, hay mưa bom, lửa đạn của kẻ thù. Vì đại nghĩa “ơn nhà – nợ nước”. Do nhiệt tình và công lao ấy vào ngày rằm tháng 5 năm Canh Tý 1960 Chị được thiên phong Giáo Sư và ơn trên cho bài thi:

Đời đạo hai vai gánh nặng oằn,
Đường đời sao khỏi trở cùng ngăn;
Mày xanh chí khí cơn giông tố,
Mắt sáng ngại gì lúc chớp giăng.
Khí phách hùng anh xung bốn cõi,
Tâm thần quân tử vững năm hằng;
Sang hà gánh nặng chung nam nữ,
Dầu trí, dầu ngu cũng một phần.

Qua những lời Ơn trên dạy bảo Chị lớn nhận thức được trọng trách của mình, quyết tâm thực hiện mục đích của Đạo, chấp hành sự hướng đạo của Hội Thánh, cực khổ gian lao chẳng nệ, làm tròn trách nhiệm cấp trên giao phó, phục vụ Nhơn sanh, phục vụ Đạo trong lúc đất nước bị kẻ thù xâm lược, chiến tranh tàn khốc. Chị luôn luôn chung sức, chung lòng, dù việc nhỏ, việc lớn, việc khó khăn nguy hiểm Chị vẫn sẳn sàng tham gia đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược, chống độc tài thống trị của chế độ ngụy quyền tay sai.

Ngày 08/03 năm Bính Ngọ (1966) tại đàn cơ phong thánh, ơn trên phong Chị chức Phối Sư trong một vé Thánh giáo:

Nữ Phối Sư Hương Sang lãnh mạng,
Khéo điểm tô bản dạng nữ hiền;
Lớn chí cả, rộng tương liên,
Dặt dè sau trước, lưởng miền xiết tay.

Vào cuối năm 1967 Chị lớn được cấp trên điều đi công tác bán hợp pháp, tại tỉnh Cần Thơ với nhiệm vụ là chuẩn bị cho cuộc đấu tranh và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Nhận nhiệm vụ bằng ý chí và sự khôn khéo của mình, Chị tranh thủ phân hóa người cháu là Võ Văn Thống Trung tá phi công không quân ngụy, với yêu cầu bằng mọi cách không được dội bom những điểm, những nơi lực lượng cách mạng bám trụ để chuẩn bị tấn công. [ . . .]

Năm 1970 với tư cách là Ủy viên Mặt trận giải phóng Khu, tầm hoạt động rộng lớn,  Chị luôn có mặt ở nhiều vùng sâu, vùng xa trong miền, cùng với địa phương đi xây dựng tổ chức: Nông Hội, Hội Phụ nữ, Hội tương trợ, v.v… cho đến ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Năm 1978 Chị lớn được đề cử làm đại biểu đi dự đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ V tại Thủ đô Hà Nội, được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam khóa V, trong dịp này Chị được phái đoàn Phụ nữ Liên Xô tặng huy hiệu: “VÌ SỰ NGHIỆP PHỤ NỮ” của nước bạn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975, đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, cũng là thời điểm Chị lớn Sang Hương đã đến tuổi thất thập niên, mặc dù tuổi cao đường hành đạo dài, trải qua bao thử thách gian truân nhưng Chị lớn vẫn một lòng vì nước, vì đạo. Năm 1978 sau khi nghỉ hưu Chị lớn trở về Hội Thánh tiếp tục hành đạo với chức vụ Đầu Phòng Nữ Phái Hội Thánh Minh Chơn Đạo và Trưởng đoàn hành hóa chịu trách nhiệm 3 Họ Đạo ở huyện U Minh, Cữu Linh Châu, Long Quang, Ngọc Quang, Chị lớn đến từng nơi: chăm lo, giúp đở, đôn đốc các Họ Đạo hàn gắn lại vết thương chiến tranh do sự tàn phá của địch. Đến tháng năm 1979 thì các Thánh Thất Cữu Linh Châu, Long Quang, Ngọc Quang được xây dựng hoàn chỉnh.

Với tinh thần vì nước, vì Đạo, Chị lớn luôn quan tâm đến việc củng cố tổ chức nội bộ, việc hành đạo hai Ban ở các Họ Đạo, nghi lễ cúng kiến, đôn đốc hướng dẫn học tập giáo lý của Hội Thánh và các chủ trương, chính sách của nhà nước, nghiêm túc thi hành sự hướng đạo của Hội Thánh.

Do sự cống hiến của Chị năm 1980 Chị lớn được Nhơn sanh và Hội Thánh ân phong phẩm Chánh Phối Sư, đến tháng 10 năm Canh Ngọ 1990 trong cuộc Đại Hội ân phong toàn cả Chức sắc Hội Thánh. Chị lớn được Đại hội nhơn sanh và Hội Thánh công cử với phẩm Nữ Đầu Sư, phẩm cao nhất của Nữ phái.

Vào ngày 15-16 tháng 02 năm Bính Tý (1996) trong cuộc Đại hội Nhơn sanh, Nhà nước công nhận pháp nhân cho phái Cao Đài Minh Chơn Đạo, chấp thuận danh sách Hội Thánh nhiệm kỳ 1996 – 2000 Chị lớn được giữ nguyên chức Đầu Sư. Sau nhiều năm bôn ba, lo toan khôi phục các Thánh Thất được ổn định. Chị lớn Đầu Sư trở về Tòa Thánh Ngọc Sắc với nhiệm vụ Thường trực Hội Thánh, thường xuyên nhắc nhở Họ Đạo: trồng cây, tạo dựng cơ sở Thánh Thất, củng cố tủ thuốc nam, làm việc phước thiện, v.v…

Với thành tích trên 70 năm vì Nước, vì Đạo Chị lớn được tặng thưởng:
- 1 Bằng khen của Hội Thánh Minh Chơn Đạo Hậu Giang.
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng I
- Huân chương giải phóng hạng III
- Huy hiệu “Vì sự nghiệp giải phóng Phụ Nữ”
- Bằng khen hạng I của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
- Huy hiệu “Vì sự nghiệp đoàn kết toàn dân”.

Trong lễ Thượng Nguơn ngày 15 tháng giêng năm Canh Thìn (2000) Chị lớn lâm bệnh nặng đã được Hội Thánh và chánh quyền địa phương đưa đến bệnh viện tỉnh Cà Mau điều trị hơn một tháng. Do bị tai biến mạch máu não nên Chị lớn phải nằm một chổ, tuy được Hội Thánh cùng Chức sắc, Chức việc, đạo tâm nam nữ và các Y, Bác sĩ tận tình chăm sóc, điều trị nhưng vì tuổi cao sức yếu Chị lớn Đầu Sư Sang Hương đã quy liểu vào lúc 0 giờ rạng ngày 13 tháng 08 năm 2001 nhằm ngày 24 tháng 06 năm Tân Tỵ.

Chị lớn Đầu Sư Sang Hương xuất thân từ gia đình nông dân, sớm bước vào con đường đạo từ năm 18 tuổi, thời điểm này Chị đã 97 tuổi đời, 79 tuổi đạo, gắn liền với Thánh Thất Ngọc Sắc 61 năm: một đời thanh bạch, cuộc sống độc thân, hòa hợp rộng rải với nhơn sanh, Đạo Đời… mọi suy nghĩ việc làm chỉ vì Nước, vì Đạo, tư tưởng luôn gắn chặt và tôn kính “Đức Chí Tôn – Bác Hồ và Đảng”, ý nghĩ đó thôi thúc Chị lớn Đầu Sư an tâm, phấn khởi, toàn tâm lo cho cơ Đạo tiến lên mục đích của đạo Thầy “Vì hòa bình, dân chủ, tự do, tiến tới đại đồng thế giới, nước vinh – đạo sáng”.
(Tài liệu do Hội Thánh Minh Chơn Đạo cung cấp)