NỘI DUNG TỜ KHAI TỊCH ĐẠO

Gửi ngày 29/05/2023
NỘI DUNG TỜ KHAI TỊCH ĐẠO
NỘI DUNG TỜ KHAI TỊCH ĐẠO ·Văn kiện chính thức của bổn đạo gởi cho Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol ghi ngày 07.10.1926,

Bản dịch Tờ Khai Tịch Đạo

 “Sài Gòn, ngày 07 tháng 10 năm 1926

Kính cùng Quan Thống Đốc Nam Kỳ, 

Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ: Vốn từ trước, tại cõi Đông Pháp có ba nền tôn giáo là: Thích Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo. Tiên nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quý báu của các Chưởng giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di,” chỉ nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm. Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau này: 1. Những người tu hành đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo Hóa. 2. Lại canh cải mối chánh truyền của các Đạo ấy làm cho thất chân truyền. 3. Những dư luận phản đối nhau về Tôn giáo mà ta thấy hằng ngày cũng tại bả vinh hoa và lòng tham lam của nhơn loại mà ra. Nên chi người Annam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện, tận mỹ ngày xưa. Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người Annam vì căn bổn, vì tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm một (quy nguyên phục nhứt) gọi là đạo Cao Đài hay là Đại Đạo. May mắn thay cho chúng sanh, Thiên tùng nhơn nguyện, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hằng giáng đàn dạy Đạo và hiệp Tam Giáo lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại cõi Nam này. Tam Kỳ Phổ Độ nghĩa là Đại Ân Xá lần thứ ba. Những lời của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy chúng tôi đều cốt để truyền bá tôn chỉ Tôn Giáo. Đạo Cao Đài dạy cho biết:
 1. Luân lý cao thượng của Khổng Phu Tử.
 2. Đạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành, lánh dữ, thương yêu nhơn loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc loạn ly giặc giã. Chúng tôi gởi theo đây cho Quan lớn nghiêm xét: 1. Một bổn sao lục Thánh ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. 2. Một bổn phiên dịch Thánh kinh. Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc hòa bình nhơn buổi trước. Được như vậy, chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mới mở, cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả ra đặng. Chúng tôi thay mặt cho nhiều người Annam mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi, và đã ký tên vào tờ Đạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho Quan lớn biết rằng kể từ ngày nay, chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp cả hoàn cầu. Chúng tôi xin Quan lớn công nhận Tờ Khai Đạo (declaratiom) của chúng tôi.”
DANH SÁCH HAI MưƠI TÁM MÔN ĐỆ ĐỨC CAO ĐÀI KÝ TÊN DưỚI TỜ KHAI TỊCH ĐẠO
 1. Bà Lâm Ngọc Thanh, nghiệp chủ, Vũng Liêm. 2. Ông Lê Văn Trung, cựu Thượng nghị viên, Ngũ đẳng bửu tinh, Chợ Lớn. 3. Ông Lê Văn Lịch, thầy tu, làng Long An, Chợ Lớn. 92 Danh sách này căn cứ theo quyển Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, có đối chiếu với nhiều sử liệu khác.
4. Ông Trần Đạo Quang, thầy tu, làng Hanh Thông Tây, Gia Định. 5. Ông Nguyễn Ngọc Tương, Tri phủ, chủ quận Cần Giuộc. 6. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, nghiệp chủ, Sài Gòn. 7. Ông Lê Bá Trang, Đốc phủ sứ, Chợ Lớn. 8. Ông Vương Quan Kỳ, Tri phủ, Sở Thuế Thân, Sài Gòn. 9. Ông Nguyễn Văn Kinh, thầy tu, Bình Lý Thôn, Gia Định. 10. Ông Ngô Tường Vân, thông phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn. 11. Ông Nguyễn Phát Đạt, nghiệp chủ, Sài Gòn. 12. Ông Ngô Văn Kim, điền chủ, đại Hương Cả, Cần Giuộc. 13. Ông Đoàn Văn Bản, Đốc học trường Cầu Kho, Sài Gòn. 14. Ông Lê Văn Giảng, thơ ký kế toán hãng Hippolito, Sài Gòn. 15. Ông Huỳnh Văn Giỏi, thông phán Sở Tân Đáo, Sài Gòn. 16. Ông Nguyễn Văn Tường, thông ngôn Sở Tuần Cảnh, Sài Gòn. 17. Ông Cao Quỳnh Cư, thơ ký Sở Hỏa Xa, Sài Gòn. 18. Ông Phạm Công Tắc, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn.
  19. Ông Cao Hoài Sang, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn. 20. Ông Nguyễn Trung Hậu, Đốc học trường tư thục Đa Kao, Sài Gòn. 21. Ông Trương Hữu Đức, thơ ký Sở Hỏa Xa, Sài Gòn. 22. Ông Huỳnh Trung Tuất, nghiệp chủ, Chợ Đũi, Sài Gòn. 23. Ông Nguyễn Văn Chức, Cai tổng, Chợ Lớn. 24. Ông Lại Văn Hành, Hương cả, Chợ Lớn. 25.Ông Nguyễn Văn Trò, giáo viên, Sài Gòn. 26. Ông Nguyễn Văn Hương, giáo viên, Đa Kao. 27. Ông Võ Văn Kỉnh, giáo tập, Cần Giuộc. 28. Ông Phạm Văn Tỉ, giáo tập, Cần Giuộc.
                                                 _______________________­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­