Nên xem qua
- CAO ĐÀI VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN RA THẾ GIỚI Gửi ngày 28/12/2021
- Thông tin BTG Chính Phủ Gửi ngày 25/03/2022
- HỘI THÁNH TRUYỀN ĐẠO ĐẾN NHƠN SANH Gửi ngày 29/05/2023
- LỄ VÀ KHIÊM Gửi ngày 10/12/2021
- ĐẠO CAO ĐÀI VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ ỨNG ... Gửi ngày 23/03/2019
- Chớ để bản năng nổi dậy (Bài viết/Tham luận-Nghiên cứu) Gửi ngày 11/08/2014
- Khả năng hội nhập thế giới của Đạo Cao Đài (Bài viết/Tham ... Gửi ngày 11/08/2014
- HỘI NGHỊ LIÊN GIAO LẦN 12 CÁC HỘI THÁNH và CÁC TỔ ... Gửi ngày 24/03/2019
- TRICH LỤC LICH SỬ CÁC SỰ KIỆN KHAI ĐẠI ĐA0 TKPD Gửi ngày 29/05/2023
- VỀ VIỆC KHAI ĐẠO VỚI CHÍNH QUYỀN (23-8-Bính Dần, 1926) Gửi ngày 29/05/2023
- YẾU TỐ CAO ĐÀI TRONG CÁC TÔN GIÁO ĐÔNG TÂY Gửi ngày 25/03/2022
- HỘI NGHỊ LIÊN GIAO 10 CÁC HỘI THÁNH & TỔ CHỨC TRONG ... Gửi ngày 19/05/2017
LỄ VÀ KHIÊM
Gửi ngày 10/12/2021
LỄ và KHIÊM
Thiện Chí st.
LỄ và KHIÊM là hai ĐỨC lón của người học trò và người trưởng thành, kể cả người có chúc phận trong xã hội. Trong Dịch lý, thánh hiền từng dạy hai đức này từ ngàn xưa để người quân tử "tiến đức tu nghiệp"
TRÍCH BÀI THÁNH NGÔN của Đức Thánh Trần:
"Phải theo câu “QUÂN TỬ TIẾN ĐỨC TU NGHIỆP”.
“Tiến Đức” nghĩa là sao? Là phải làm lòng lành được nẩy nở, phải xây dựng bản thân con người đạo đức, để tiến lên bực Thánh Hiền. Bắt đầu phải đi từ 1 đến 10; cần trải qua một chương trình thứ lớp. Phải công phu theo 9 quẻ sau nầy, để tiến đức của người quân tử.
1- LÝ, đức chi cơ (Thiên Trạch Lý)
2- KHIÊM, đức chi bỉnh (Địa Sơn Khiêm)
3- PHỤC, đức chi bản (Địa Lôi Phục)
4- HẰNG, đức chi cố (Lôi Phong Hằng)
5- TỔN, đức chi tu (Sơn Trạch Tổn)
6- ÍCH, đức chi vụ (Phong Lôi Ích)
7- KHỔN, đức chi biện (Trạch Thủy Khổn)
8- TỈNH, đức chi địa (Thủy Phong Tỉnh)
9- TỐN, đức chi chế (Tốn vi Phong)
1/- LÝ là học quẻ Thiên trạch Lý để tiến đức, bằng lòng cung kỉnh, hành chỉ đúng với Đạo lý, hợp với Lễ. Như thế gọi là “Lý, Đức Chi Cơ”.
Đức chi cơ nghĩa là: lấy lễ nghi, Đạo lý làm nền, cho công phu tiến đức. Lễ nghi khuôn phép đã có nền, ví như ta làm nhà phải xây nền móng trước vậy. NỀN đó là Lễ Phép.
2/- Lễ phép phải ở đức KHIÊM TỪ, nhường nhịn, hạ mình mà tôn kỉnh kẻ đạo cao đức lớn, nên gọi “Khiêm, đức chi bỉnh”. Bỉnh là cán cân. Cân cán để làm cái hạnh đạo sâu dày của người quân tử là Khiêm.
Trời nhờ Khiêm mà muôn vật gội ơn hằng sống, như tất cả vật ở trên không đều hướng hạ xuống trần, như: mây mưa, mùa tiết, mặt trời mặt trăng soi rọi cho muôn vật nhuần thấm, ấm áp sanh sôi. Đức Khiêm của đất rộng dày sâu, chứa đựng không từ một vật, dầu sạch hay dơ, kẻ lành hay đứa dữ, mà làm cho nó trưởng dưỡng, đủ sự tiêu dùng. Mặt trời lên cao phải hạ xuống, mặt trăng tròn phải khuyết mà mờ đi, nên đức Khiêm như mặt trăng chịu khuyết mà được tròn; mặt trời lặn mất, nhưng rồi lại lên cao, cao vút. Đức Khiêm hạ mình dưới hết, như biển ở chỗ thấp, nước muôn rạch đều đổ về. Vậy là Khiêm mà bỉnh cán! [. . .]
Nguồn : nhipcaugiaoly.com
LỄ và KHIÊM
Thiện Chí st.
LỄ và KHIÊM là hai ĐỨC lón của người học trò và người trưởng thành, kể cả người có chúc phận trong xã hội. Trong Dịch lý, thánh hiền từng dạy hai đức này từ ngàn xưa để người quân tử "tiến đức tu nghiệp"
TRÍCH BÀI THÁNH NGÔN của Đức Thánh Trần:
"Phải theo câu “QUÂN TỬ TIẾN ĐỨC TU NGHIỆP”.
“Tiến Đức” nghĩa là sao? Là phải làm lòng lành được nẩy nở, phải xây dựng bản thân con người đạo đức, để tiến lên bực Thánh Hiền. Bắt đầu phải đi từ 1 đến 10; cần trải qua một chương trình thứ lớp. Phải công phu theo 9 quẻ sau nầy, để tiến đức của người quân tử.
1- LÝ, đức chi cơ (Thiên Trạch Lý)
2- KHIÊM, đức chi bỉnh (Địa Sơn Khiêm)
3- PHỤC, đức chi bản (Địa Lôi Phục)
4- HẰNG, đức chi cố (Lôi Phong Hằng)
5- TỔN, đức chi tu (Sơn Trạch Tổn)
6- ÍCH, đức chi vụ (Phong Lôi Ích)
7- KHỔN, đức chi biện (Trạch Thủy Khổn)
8- TỈNH, đức chi địa (Thủy Phong Tỉnh)
9- TỐN, đức chi chế (Tốn vi Phong)
1/- LÝ là học quẻ Thiên trạch Lý để tiến đức, bằng lòng cung kỉnh, hành chỉ đúng với Đạo lý, hợp với Lễ. Như thế gọi là “Lý, Đức Chi Cơ”.
Đức chi cơ nghĩa là: lấy lễ nghi, Đạo lý làm nền, cho công phu tiến đức. Lễ nghi khuôn phép đã có nền, ví như ta làm nhà phải xây nền móng trước vậy. NỀN đó là Lễ Phép.
2/- Lễ phép phải ở đức KHIÊM TỪ, nhường nhịn, hạ mình mà tôn kỉnh kẻ đạo cao đức lớn, nên gọi “Khiêm, đức chi bỉnh”. Bỉnh là cán cân. Cân cán để làm cái hạnh đạo sâu dày của người quân tử là Khiêm.
Trời nhờ Khiêm mà muôn vật gội ơn hằng sống, như tất cả vật ở trên không đều hướng hạ xuống trần, như: mây mưa, mùa tiết, mặt trời mặt trăng soi rọi cho muôn vật nhuần thấm, ấm áp sanh sôi. Đức Khiêm của đất rộng dày sâu, chứa đựng không từ một vật, dầu sạch hay dơ, kẻ lành hay đứa dữ, mà làm cho nó trưởng dưỡng, đủ sự tiêu dùng. Mặt trời lên cao phải hạ xuống, mặt trăng tròn phải khuyết mà mờ đi, nên đức Khiêm như mặt trăng chịu khuyết mà được tròn; mặt trời lặn mất, nhưng rồi lại lên cao, cao vút. Đức Khiêm hạ mình dưới hết, như biển ở chỗ thấp, nước muôn rạch đều đổ về. Vậy là Khiêm mà bỉnh cán! [. . .]